Khu đền tháp Theo những di tích để lại thì khu đền tháp có tổng cộng là 6 Kalan. Kalan theo tiếng Chăm Pa là đền/tháp. Đang hiện hữu còn 4 Tháp, 2 tháp phía sau đã bị hủy và chỉ còn lại nền
Các tháp đều được xây dựng một kiểu giống nhau, chỉ khác về kích thước và độ rộng. Được xây dựng theo bình đồ hình vuông. Từ chân thẳng tắp đến gần đỉnh tháp, vị trí trên cùng được thiết kế theo kiểu hình chóp nón
Mỗi tháp đều có 4 cửa hướng ra Đông, Tây, Nam, Bắc. Nhưng chỉ có cửa Đông được mở cho khách hành hương và kéo dài đến tiền sảnh. 3 cửa còn lại tạo hình như cửa giả
+ Tháp Đông Bắc
Tháp chính cũng là tháp cao nhất khoảng 23m. Được xây dựng năm 813 – 817 và được tu bổ, sửa lại vào thế kỉ XI. Sử dụng 5 hàng trụ áp tường chạy dọc trên thân tháp.
Bốn góc mái là 4 tháp nhỏ trong đó có 3 tầng mái thu nhỏ dần lên phía trên. Hệ mái của Tháp được so sánh như núi Mêru – nơi có 5 ngọn núi của các vị thần tại Campuchia và có đỉnh ở giữa cao nhất
Trên đó sẽ trang trí toàn những linh vật: Voi, Ngỗng, Dê… Mang hơi hướng tâm linh sâu sắc của tôn giáo.
Hướng mắt đến vòm cửa bạn sẽ dễ dàng thấy tấm phù điêu hình lá bằng đá. Như hiện thân 4 cánh tay đang múa của thần Shiva. Chân phải Shiva đặt trên lừng bò thần Nandin và 2 bên có nhạc công thổi sáo. Những nhân vật xuất hiện trong tấm phù điêu được thể hiện rất uyển chuyển, mượt mà, tạo sự sinh động và phá cách. Hơn nữa, tấm phù điêu niên đại thế kỷ XI cũng là một trong những tấm phù điêu đẹp nhất của văn hóa Chăm Pa tại Việt Nam.
Bạn để ý trên những trụ đá ở cửa có những bia ký khắc chữ Sancrit hòa chữ chăm cổ. Nội dung ghi chép việc xây dựng tháp và cúng dường lễ vật của Vua chúa, hoàng tộc Chăm dâng lên Nữ Thần và việc Nữ Thần ban phúc cho muôn dân
Trích dẫn một bia ký: “Nữ thần của Kauthara, người có tấm thân rực sáng bởi vẻ đẹp và tấm choàng tuyệt hảo bằng vàng, người có khuôn mặt ngời sáng rạng rỡ và đẹp đẽ như đóa hoa sen và đôi má sáng chói bởi ánh sáng của ngọc ngà châu báu, đã luôn ban phước cho tất cả những ai quỳ xuống cầu nguyện trước mặt mình.”
Đến phần trong tháp là điện thờ hình vuông với tượng Nữ Thần Ponagar. Đây cũng là linh hồn cho tháp bà ponagar Nha Trang. Người cũng là tượng của Uma – biểu tượng âm tính của thần Shiva. Và theo tín ngưỡng của người Việt, do đó tượng được khoác Xiêm Y bên ngoài, hai bên thờ Cô và Cậu.
Trên các ô của giả được khoét sâu vào tường với những hình tam giác. Ngày trước người Chăm Pa thắp bằng trầm và cúng bằng nước. Sau này, theo tín ngưỡng nhang đèn nên đã được thay đổi. Cũng do vậy mà trên các bức tường của di tích bạn thấy có màu đen bám vào là vậy
+ Tháp Nam
Tháp lớn thứ 2 sau tòa tháp chính với độ cao 18m. Nhìn vào thì vẫn nhận ra kiến trúc xây theo mô típ cũ nhưng chỉ riêng phần mái có điều khác lạ. Chúng được thu gọn thành một tầng chóp kéo là lên trên, trên đỉnh có đặt 1 trụ linga.
Được cho là nơi thờ thần Shiva – chồng Nữ Thần, cũng còn có tên là tháp Ông. Có niên đại vào thế kỷ XIII
+ Tháp Tây Bắc
Cao thứ 3 trong toàn bộ tổng thể tháp, khoảng 9m. Cũng là tháp còn giữ được nguyên vẹn về trang trí lẫn kiến trúc. Mỗi ô cửa giả là các linh vật, được khắc họa tinh xảo trên nền gạch nung.
Ô cửa giả phía Nam là hình ảnh chim thần Garuda, phía Bắc là thần thời gian Kala, phía tây là tượng nữ thần cưỡi voi.
Tháp chỉ có 1 tầng và tầng mái mô phỏng như hình chiếc thuyền. Theo mô típ là đề mềm lại cong nhọn, uốn vào trong, phô ra hai trán. Và có chạm khắc vị thần ngồi dưới tán các đầu rắn Nagar.
Tháp Tây Bắc thờ thờ Ganesha – hình tượng của sự may mắn, trí tuệ và hạnh phúc. Tương truyền đây là tháp thờ Cô – Cậu, là con của Nữ Thần.
Linh vật chính ở tháp là Linga và Yoni. Là nơi để cầu mong muôn hoa vạn vật luôn sinh sôi nảy nở, cuộc sống luôn ấm no, hạnh phúc, sum vầy. Tháp có niên đại xây dựng năm 817 và tu sửa vào thế kỷ XIII.
+ Tháp Đông Nam
Chỉ cao 7,1m và cũng là tháp nhỏ nhất trong tất cả. Tháp được xây dựng cũng khá đơn giản với mái hình yên ngựa hay hình thuyền. Hình ảnh quen thuộc của những ngư dân Đông Nam Á Hải Đảo.
Là kiến trúc phụ và thuộc loại muộn, ở thế kỷ XI – XII. Tháp thờ vị thần tượng trung cho sức mạnh và chiến tranh Skandha. Đây cũng là tháp thờ ông bà Tiều – người đã cưu mang và nuôi dưỡng Nữ Thần Thiên Y A. Na
- Bia Ký
Bia ký cổ Chămpa tại Tháp Bà Pô Nagar có giá trị rất lớn đối với các nhà nghiên cứu cho văn hóa, tôn giáo và lịch sử của vương quốc Chăm Pa. Hiện nay, theo tài liệu được biết ở Ponagar có 28 đơn vị minh văn; trong số đó có một số bia chưa thể dịch nội dung
Phía sau Tháp chính có tấm bia do Phan Thanh Giản – một vị quan Thượng thư bộ Lễ dưới triều Nguyễn ghi chép, biên soạn và cho khắc vào năm 1856 (triều vua Tự Đức). Bằng chữ Hán – Nôm nói về truyền thuyết Thiên Y ANa Thánh Mẫu của người Việt.
Tấm bia thứ hai do 8 vị quan tỉnh Khánh Hòa, Bình Thuận lập năm 1871
Bên cạnh là tấm bia dựng vào năm 1972, nội dung dịch sang chữ quốc ngữ truyền thuyết bà Thiên Y ANa.
Tấm bia đá thứ tư, giới thiệu về di tích Tháp Bà Ponagar được dựng vào năm 2010
Sự thật huyền thoại người mẹ xứ sở Thiên Y A Na
Nói về Tiên Nữ Thiên Y A A Na thì có rất rất nhiều truyền thuyết ly kỳ. Nhưng câu chuyện được sự tin tưởng của người dân cũng như các học giả nghiên cứu do Phan Thanh Giản chép lại thành một bài ký và Bố chánh sứ tỉnh Khánh Hòa là Nguyễn Quýnh khắc bia dựng phía sau tháp Poh Nagar ghi lại rằng:
Tích xưa tại núi Đại An (nay là Đại Điền – Khánh Hòa), có 2 vợ chồng tên Tiều đến sinh sống, xây nhà và cuốc rẫy để trồng dưa. Cứ mỗi độ dưa chín thì lại bị mất trộm. Một hôm ông Tiều rình xem là ai đã lấy dưa của nhà mình thì không ngờ ông lại bắt gặp được một thiếu nữ trạc độ tuổi xuân xanh, đẹp như tranh vẽ. Điều kỳ lạ là cô cứ hái dưa và đùa giỡn dưới trăng. Vì gia cảnh không có con cái nên ông đã đem thiếu nữ này về nuôi và thương yêu hết lòng như con ruột của mình.
Tiên Nữ Hóa Kỳ Nam
Cuộc sống gia đình cứ yên bình diễn ra đến một hôm trời lụt lớn. Vì là con người năng động, thích vui đùa, thiếu nữ đã lấy các viên đá và chất thành 3 hòn giả Sơn (núi) và hái hoa lá cắm vào. Ông Tiều thấy thế cho rằng hành động của cô không hợp với quy tắc thời bấy giờ. Ông không ngờ được con gái mình chính là tiên nữ giáng trần đang nhớ cảng bồng lai, do đó ông đã nặng lời la rầy.
Cảnh vật đã tiêu điều, hoang sơ, buồn bã, lại bị cha mắng. Nhân khúc kì nam đang trôi theo dòng nước, nàng đã hóa thân vào khúc kì nam và mặc cho dòng nước chảy. Nàng trôi dạt ra biển cả rồi dừng chân tấp vào mé sông của đất Trung Hoa
Mùi hương từ kỳ nam bay ngào ngạt khắp cả vùng, dân chúng thấy thế lấy làm lạ rủ nhau đến xem. Thấy được đây là gỗ tốt nên ai cũng muốn giành lấy về cho mình nhưng lạ thay không một ai có thể khiên nổi
Tin đồn lan truyền khắp cả kinh thành và cũng đến tai của thái tử Bắc Hải. Thái tử nghe thấy thế muốn đến tận nơi để xem thực hư. Nhưng khi tận mắt thấy được khúc gỗ nhỏ, ông dùng tay mình nâng thử và thật lạ kì chúng nhẹ như không. Thái tử cho truyền lệnh mang về cung và xem chúng như báu vật
Trong một đem trăng mờ, Thái Tử thấy thấp thoáng có bóng người gần chỗ kỳ nam, chạy vội đến nhưng không thấy ai, tứ bề vắng lặng, chỉ thấy khúc gỗ và mùi thơm thoang thoảng. Không nản chí chờ đợi, ông canh suốt mấy ngày mấy đêm. Một hôm trăng thanh, im lặng, bước ra từ khúc kì nam, một tiên nữ giai nhân tuyệt trần, hương thơm ngào ngạt. Thái tử chạy đến ôm choàng, không kịp biến cô bèn phải khi thật lai lịch của mình với tên là Thiên Y A Na
Thái Tử đến tuổi trưởng thành nhưng vẫn chưa có người ưng ý. Thấy Thiên Y A Na xinh đẹp rạng ngời, ông tâu với phụ vương cưới nàng làm vợ. Vua đồng ý và 2 người sống với nhau rất hòa thuận, thương yêu, sinh được hai con, trai tên Trí và gái tên Quý rất khôi ngô
Thiên Y A Na – Thánh Mẫu đã đem về an lành, ấm no cho dân tộc
Dù êm ấm, hạnh phúc nhưng công dưỡng dục của phụ mẫu quê nhà sao có thể quên. Thiên Y A Na đã bồng hai con và nhập vào khúc kỳ nam để trôi về quê cũ. Thế nhưng hai ông bà Tiều đã không còn tại dương thế. Bà đã xây đắp mồ mả cha mẹ, sửa sang lại nhà cửa để thờ cúng
Người dân còn nghèo khổ, cơm không đủ no, bà đã dạy cho họ cày cấy, kéo sợi dệt vải và đưa ra những nghi lễ… Từ đó ruộng nương được mở rộng, đời sống dân chúng nơi đây ấm no, hạnh phúc. Có cơm ăn áo mặc, thiên nhiên thuận hòa.
Một năm sau vào ngày lành tháng tốt, xuất hiện chim hạc từ trên trời bay xuống, bà cùng 2 con đã lên lưng hạc và bay về trời. Vì ơn lớn lao của bà, đem lại ấm no cho dân lành, dân đã tạc tượng và thờ cúng Thiên Y A Na. Mỗi năm đến ngày bà thăng thiên, mọi người tụ họp lại tổ chức lễ và múa bóng, dân hoa rất long trọng thể hiện sự tôn kính.
Vì sao Thiên Y A Na là người sở hữu Trầm nhiều nhất?
Sau sự tích hóa thân vào kỳ nam, người dân địa phương Khánh Hòa luôn tin tưởng rằng tất cả trầm hương đều là của Bà đem đến và ban phát. Bà cho mới được nhận còn không cho thì có tìm cách mấy cũng sẽ không tìm ra, dù bạn có đứng cạnh bên cũng không thể nào thấy.
Bạn có khi nào đặt câu hỏi Thánh nữ hóa thân vào Kỳ Nam nhưng lại có biệt danh sở hữu nhiều nhất Trầm Hương?
Trầm Hương và Kỳ Nam có thể coi chúng là cùng một loại. Nhưng nếu bạn có nghe ông cha ta kể lại việc họ đi địu trên rừng cao để mong tìm được kỳ nam thì sẽ biết rằng kỳ nam có giá gấp rất nhiều lần so với Trầm hương. Truyền thuyết kể rằng nếu ai thấy được kỳ nam cũng như việc đang thấy Thánh Mẫu, người đó sẽ được sung sướng, gặp may mắn cả cuộc đời.
Có người thấy được trầm thì may 1 nhưng gặp được Kỳ là may đến 10 lần. Ai có phước phần, có đức và có duyên Bà mới cho thấy được Kỳ Nam. Không những Trầm mà Kỳ Nam cũng đều là của bà.
Theo như tương truyền: Thánh mẫu đã đặt 4 cây trầm hương để trấn 4 phương, làm cho Khánh Hòa lúc nào cũng được thiên thời địa lợi nhân hòa. Một ở suối Ngổ trấn phía Đông, Hòn Dữ (Diên khánh) trấn phía Tây, ở Đồng Bò trấn phía Nam và ở Hòn Bà (Ninh Hòa) trấn phía Bắc.
4 cây mộc thần này không lá nhưng mưa nắng cũng không bị hư hại hay đục khoét. Nếu ai thấy được muốn chiếm hữu thì sẽ bị rắn độc, cọp beo, chim rừng… tấn công. Do vậy trước khi đi địu dân chúng cần phải lập đàn thờ cúng bà, nghi thức long trọng và cẩn thận cách nói trong khi đi rừng.
Truyền thuyết của người dân Chăm Pa kể lại
Xưa kia, có một vị thần ở biển khơi được tạo nên từ mây trời và bọt biển tên là thần Poh Nagar. Trong một ngày nước dâng cao đã đưa người tới song Yjatran ở Kauthara (sông Cù Huân). Trước khi người xuất hiện sấm chớp và gió lớn nổi lên như báo hiệu bà sắp giáng xuống nơi đây. Tất cả đều hạ mình để đón chào vị thần tới nơi đây, cây cối muôn thú đều vui mừng.
Sau khi đặt chân lên bờ, bà đã hóa phép tạo nên những cung điện lộng lẫy và uy nghi. Sở hữu nhiều phép thần thông và tới 97 người chồng. Trong tất cả chỉ có Pô Yan Amo là người chồng có quyền uy nhất. 97 người chồng cho bà 38 đứa con, tất cả đều là con gái và đều trở thành thần tiên. Các vị thần trong tháp bà ponagar chỉ có 3 vị thần được bà truyền nhiều quyền năng nhất chính là Pô Nagar Dara, Pô Bia Tikuk và Rarai Anaih.
Trong một ghi chép khách do Phan Thanh Giản viết vào năm 1857 thời vua Tự Đức thứ 9 và sau này tới năm 1970 được ông Lê Vinh và ông Quách Tấn tạc lại có nội dung như sau: “Khi đất Kauthara thuộc về người Việt, thì nữ thần Po Nagar cũng trở thành vị nữ thần của người Việt với tên gọi là Thiên Y A Na và sự tích của bà cũng được Việt hóa”
Lễ hội tháp bà và điệu múa bóng huyền thoại
Không những mang ý nghĩa tâm linh cho người Chăm Pa mà lễ hội tháp bà ponagar cũng là ngày lễ lớn của tín dân Khánh Hòa. Hằng năm cứ đến ngày 20-23 tháng 3 âm lịch, lễ hội tháp bà được diễn ra rất long trọng. Người người dân hương, dâng hoa, dâng lễ vật để cầu mong dân chúng Khánh Hòa nói riêng và cả nước nói chung được ấm no, hạnh phúc và cầu xin mưa thuận gió hòa